NGUYÊN PHI Ỷ LAN hai lần buông rèm nhiếp chính
Một sớm mùa xuân, Vua về viếng thăm chùa Dâu (tổng Dương Quang, phủ Thuận Thành), dân làng mở hội nghênh giá. Thánh Tông Hoàng đế cùng hòa vào dân chúng trong hội làng đông vui. Trai gái, già trẻ các làng đều ra rước Vua. Đoàn xa giá của Vua đi đến đâu, các làng lân cận nô nức, đổ xô về phía ấy. Duy chỉ cô thôn nữ xinh đẹp của làng Sủi vẫn điềm nhiên hái dâu, xem việc ngự giá của Vua không có quan hệ gì đến mình. Lý Thánh Tông thấy làm lạ, bèn cho đòi người con gái có vẻ “kiêu căng” đang đứng bên nương dâu kề gốc lan ấy đến trước kiệu rồng để hỏi. Cô gái ung dung nhẹ nhàng đến quỳ tâu: “Thiếp là con nhà nghèo hèn, phải làm lụng đầu tắt mặt tối, phụng dưỡng cha mẹ, có đâu dám mong đi xem rước và nhìn mặt Rồng”.
Vua thấy cô gái ăn mặc quê mùa, nhưng cử chỉ đoan trang, lời nói dịu dàng, đối đáp phân minh, lễ nghĩa khác hẳn những người con gái mà vua đã từng gặp. Yêu vì sắc, trọng vì nết nên Vua cho cô gái theo long giá về kinh đô. Cô thôn nữ được đón về cung vua ấy là Yến cô nương xinh đẹp, nết na của làng Siêu Loại (Sủi). Nhờ “thông minh vốn sẵn tính trời”, được học tập, trau dồi, Yến cô nương đã trở thành một cung phi “nổi danh tài sắc một thời”, kinh sử làu thông, văn chương uyên bác. Lý Thánh Tông đem lòng yêu mến, sau khi nàng sinh Thái tử Càn Đức thì được phong làm Ỷ Lan phu nhân, đánh dấu kỷ niệm về người con gái “đứng tựa gốc lan” năm nào.
Hai lần buông rèm nhiếp chính
Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1069), vua Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Trước khi đi, nhà vua tin cậy trao quyền điều khiển chính sự ở triều đình cho Ỷ Lan nguyên phi. Trận này, vua đánh Chiêm Thành mãi không được, đem quân về đến Châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hưng Yên). Nghe tin Nguyên phi giúp việc nội trị, lòng dân cảm hóa vui vẻ, trong cõi yên tĩnh, tôn sùng Phật giáo, nhân dân gọi bà là Quan Âm, vua nói: “Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao!”. Vua bèn quay lại đánh nữa và thắng trận.
Năm Nhâm Tý (1072) tháng Giêng mùa xuân, Lý Thánh Tông mất, Hoàng thái tử Càn Đức lên ngôi, tức vua Lý Nhân Tông. Khi ấy vua mới lên 7, tôn mẹ đẻ là Ỷ Lan nguyên phi lên làm Linh Nhân hoàng thái phi. Sau đó, Linh Nhân Hoàng thái phi được tôn làm Thái hậu nhiếp chính, hiệu là Linh Nhân Hoàng thái hậu. Để chấn hưng văn hóa, Linh Nhân Hoàng thái hậu mở khoa thi Nho học đầu tiên để chọn người hiền tài vào năm 1075 và cho xây Quốc Tử Giám vào năm 1076.
Trước họa quân Tống kéo sang xâm lược, vua Lý Nhân Tông lúc ấy chưa quá 10 tuổi, Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ, điều Lý Đại Thành đang trấn ải Nghệ An về trao lại chức Thái sư, cùng ông lo việc binh lương chuyển ra tiền tuyến. Chiến thắng vang dội trên dòng sông Như Nguyệt (1076) đã buộc nhà Tống phải công nhận Đại Việt là một quốc gia độc lập năm 1077. Ngoài tài cầm quân của vị anh hùng kiệt xuất Thái úy Lý Thường Kiệt, thì không thể không kể đến công lao to lớn của Hoàng thái hậu Ỷ Lan.
Xuất thân là một thôn nữ nên khi sống trong cảnh lầu son gác tía, Ỷ Lan vẫn không quên những nỗi thống khổ của người dân nghèo. Khi chấp chính, bà đã tự mình hoặc cùng vua ban hành nhiều chính sách ích quốc lợi dân. Hai việc có tính chất công đức của bà là “chuộc người” (năm 1103) và “đề xuất lệnh cấm trộm trâu và giết trâu bừa bãi” (năm 1117) đã được “Đại Việt sử ký toàn thư” chép lại. Theo đó, đối với những phụ nữ nông dân vì cùng khổ phải đem thân gán nợ cho nhà giàu, bà cho xuất của trong kho chuộc về và xây dựng chồng con cho họ.
Với nông dân thì “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Thấu hiểu điều đó nên bà đã đề xuất với vua: “Gần đây người kinh thành và làng ấp đã có kẻ trốn đi chuyên nghề trộm trâu. Nông dân cùng quẫn. Mấy nhà phải cày chung một trâu. Trước đây, ta đã từng mách việc ấy, và nhà nước đã ra lệnh cấm. Nhưng nay việc giết trâu lại có nhiều hơn trước”. Nghe lời Thái hậu, Nhân Tông bèn ra lệnh phạt rất nặng những người trộm và giết trâu, phạt cả vợ và con của hàng xóm về tội không tố giác.
Là một người sùng đạo Phật, Ỷ Lan rất siêng làm việc từ thiện, xây dựng đình chùa, tính ra đến hơn 100 chùa cả thảy. Ngoài giờ nhiếp chính, bà cũng năng lui tới chùa chiền đàm đạo với những cao tăng về phật pháp, có những bài kinh, câu kệ của bà còn truyền tới đời nay.
KỆ SẮC KHÔNG
Sắc là không, không tức sắc,
Không là sắc, sắc tức không.
Sắc không đều chẳng quản,
Mới được hợp chân tông.
Chính vì những công tích đó mà. Sau khi Ỷ Lan qua đời vào mùa thu, tháng 5, ngày 25 (1117), nhân dân đã xây dựng nhiều ngôi đền thờ ở khắp nơi để tỏ lòng biết ơn, tưởng nhớ ân đức, công lao của bà.
Lời bàn:
Là một phụ nữ sáng danh trong lịch sử nước nhà, Nguyên phi Ỷ Lan, ngoài tài trị quốc, an dân bà còn có công việc chống xâm lược, chấn hưng Phật giáo. Chẳng thế mà dân gian thường gọi bà là “Phật giáng thế” hay “bà Tấm Kinh Bắc”. Một danh hiệu mà không nhiều người phụ nữ trong lịch sử có vinh hạnh này.