HOÀNG HẬU PHẠM THỊ UYỂN – Hoàng hậu duy nhất trong sử Việt cầm quân ra trận

HOÀNG HẬU PHẠM THỊ UYỂN – Hoàng hậu duy nhất trong sử Việt cầm quân ra trận

Theo sách “Những Phi – Hậu nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam” và thần tích của đình làng Hòa Mục ở Cầu Giấy, Hà Nội (nơi Hoàng hậu Phạm Thị Uyển được thờ làm Thành Hoàng), Hoàng hậu Phạm Thị Uyển quê ở quận Nam Xương (Cầu Giấy ngày nay). Cha là ông Phạm Huyên, hiệu là Minh Dực. Mẹ là bà Phùng Thị Thảo, hiệu Diệu Hoa, là em gái của Phùng Hạp Khanh (Cha của Bố Cái Đại vương Phùng Hưng).

 

 

Vợ chồng ông Phạm Huyên muộn đường con cái nên thường đến chùa cầu tự. Một ngày kia, ông bà được báo mộng có người nối dõi. Từ đấy, bà mang thai và đồng sinh một gái, hai trai. Phạm Thị Uyển là chị cả, dưới còn Phạm Miện và Phạm Huy. Hai người em bà sau này đều là các danh tướng trong cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng. Phạm Thị Uyển nổi tiếng xinh đẹp, mắt phượng mày ngài, giỏi võ nghệ, có khí phách hơn người. Năm 18 tuổi bà lấy Mai Thúc Loan.
Bấy giờ, đất nước ta đang bị nhà Đường đô hộ. Căm phẫn trước chính sách bóc lột tàn bạo của kẻ thù, năm 713, Mai Thúc Loan dựng cờ khởi nghĩa ở Nam Đàn (Nghệ An). Đến tháng 4/713, Mai Thúc Loan lên ngôi Vua, lấy hiệu là Mai Hắc Đế. Bà Phạm Thị Uyển trở thành Hoàng hậu. Sau khi trở thành vợ Mai Thúc Loan, bà Phạm Thị Uyển cùng chồng chung vai gánh vác sự nghiệp. Vốn là người có chí khí, văn võ song toàn, am hiểu binh thư, sách lược đánh trận, bà thường bàn luận việc cơ mật với Mai Thúc Loan.Quân Đường thua trận nhưng không chịu bỏ mộng xâm lăng. Bởi vậy, nhà Đường sai Dương Tư Húc mang 10 vạn quân sang đánh. Thế giặc mạnh làm cho đội quân gồm những nông dân khởi nghĩa phải lui dần.
Tương truyền, trong thời gian này Hoàng hậu Phạm Thị Uyển luôn sát cánh cùng chồng trong các trận chiến. Khi đó nước An Nam mới giành được độc lập nên quân sĩ chưa được huấn luyện nhiều, chủ yếu là lính mới, không có kinh nghiệm, phải chống lại đội quân chính quy của nhà Đường có quân số đông hơn.

 

 

Trong trận quyết chiến ở phủ thành Tống Bình, Hoàng hậu Phạm Thị Uyển cũng dẫn đầu một một cánh quân để chặn địch trên dòng Tô Lịch. Bấy giờ sông Tô còn là một nhánh của sông Hồng và là mặt án ngữ phía Tây của thành Đại La. Thế giặc quá mạnh, quân Việt chống cự không nổi và tử trận ngày càng nhiều. Thế giặc mạnh, quân ta bị đuối dần. Thế cùng lực kiệt nhưng quyết không để rơi vào tay giặc, Hoàng hậu Phạm Thị Uyển đã nhảy xuống sông Tô Lịch tự vẫn vào ngày 15/7/722. Xác bà trôi dạt đến địa phận trang Nhân Mục (nay là làng Hòa Mục, Cầu Giấy, Hà Nội) thì được nhân dân lén vớt lên chôn cất, rồi lập đền thờ phụng, tôn là Đại Ả Nương. Đó chính là đền Dục Anh ngày nay, nằm trên đường Nguyễn Ngọc Vũ, quay mặt ra sông Tô Lịch.


Lời bàn:
Trong lịch sử Việt Nam, nữ tướng đánh giặc như Hai Bà Trưng, Bà Triệu không hiếm nhưng Hoàng hậu cầm quân đánh giặc có lẽ chỉ có Hoàng hậu Phạm Thị Uyển. Dù là phận nữ nhi nhưng bà không chỉ an phận nơi hậu cung mà còn sát cánh bên chồng kể cả trên chiến trường.
Tiếp bước Bà Trưng, Bà Triệu, hoàng hậu Phạm Thị Uyển lại làm cho lịch sử phải nhìn nhận lại vai trò của người phụ nữ. Bà là một điển hình tiêu biểu cho bản sắc Việt Nam nói chung, bản sắc người phụ nữ nói riêng.
Nếu sinh thời nhà văn Nguyễn Đình Thi từng nói: “Dân tộc ta có tướng giỏi cầm quân và người phụ nữ là đáng để nói với thiên hạ” thì ở trong một hình tượng Hoàng hậu Phạm Thị Uyển dường như có sự tích hợp cả hai điều đó. Là Hoàng hậu “mẫu nghi thiên hạ” nhưng bà cũng là một dũng tướng luôn sát cánh bên chồng, anh dũng chiến đấu để bảo vệ độc lập tự do của Tổ Quốc. Hành động sát cánh bên chồng cả khi xông pha trận mạc làm chúng ta liên tưởng đến hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thủy chung son sắt trong câu ca dao:
Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đắng cay thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam”

Tương truyền, đến thế kỷ XV, khi nghĩa quân Lam Sơn tổng công kích quân Minh, trong một lần hành quân, Lê Lợi nghỉ đêm ở miếu Dục Anh. Lê Thái Tổ được thần báo mộng sẽ âm phù cho quân khởi nghĩa diệt giặc. Sau này khi lên ngôi vua, Lê Lợi sắc phong cho bà là Khiêm Sung Đại vương. Hơn nghìn năm qua, người dân làng Hòa Mục tôn bà làm Thành Hoàng để thờ phụng.
Trong tâm trí người dân, vị Hoàng hậu dũng cảm là một vị Thành hoàng che chở cho dân làng từ lâu. Tháng 8 hàng năm, họ tổ chức hội lớn để tưởng nhớ đến người anh hùng đánh giặc giữ nước.